Nghệ trắng (Wild tumeric) còn có tên khác là nghệ rừng, ngải dại, ngải mọi, ngải trắng, nghệ thơm, tiếng Pa-cô là Tara-hau-hen, tên khoa học là Curcuma aromatica, thuộc họ gừng.Là loài của Á châu nhiệt đới, phân bố ở hầu khắp rừng nước ta.
Cây thảo cao khoảng 20-60cm (1m), có thân rễ khỏe, với những củ hình trụ mọc tỏa ra có đốt, ruột màu vàng. Lá rộng hình giáo, nhẵn ở mặt trên, có lông mềm mượt ở mặt dưới, dài 30-60cm, rộng 10-20cm; cuống lá ngắn ôm lấy thân. Cụm hoa ở bên, mọc từ gốc, gồm một nón vẩy lõm, lợp lên nhau, màu lục, 3-6 hoa và ở phần trên có những vẩy khác lớn hơn, thưa, màu hồng, bất thụ; hoa màu tím ở phiến ngoài của tràng hoa, màu vàng trên phiến giữa; phiến này lớn hơn nhiều so với phiến ngoài.
Nghệ trắng thường mọc hoang dã, thân rễ có mùi thơm đặc biệt và hấp dẫn màu vàng sậm.
Thân rễ nghệ trắng thường được sử dụng để làm thảo dược mỹ phẩm và như một gia vị trong một số loại thực phẩm
Thành phần hoá học: Thân rễ chứa 6,1% tinh dầu, màu trắng vàng, nhớt, có mùi long não gồm hai chất dầu, một cái nhẹ, một cái nặng hơn nước, một chất nhựa mềm, đắng, và một chất chiết xuất cũng đắng, một chất màu là Curcumin
Tính vị, tác dụng: Vị cay, đắng, tính mát; có tác dụng hành khí giải uất, lương huyết phá ứ lợi mật, trừ hoàng đản.
Trị đau vùng gan, hoặc viêm gan mạn tính: nghệ trắng, thanh bì, nga truật, (sao vàng), chỉ xác (thái chỉ, sao vàng), lá móng tay (sao khô), sơn tra, thảo quyết minh, mộc thông, tô mộc, huyết giác đều sao vàng, đồng lượng 10 – 12g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần, trước bữa ăn. Uống liền 3 – 4 tuần.
Theo Suckhoedoisong